Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Bố Già

                                                                               Mario Puzo

Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

Chiếc áo bào (Victor Hugo, Pháp)

484e9526_257049

Le Manteau impérial

Chiếc áo bào (Người dịch: Phùng Văn Tửu)

Oh! vous dont le travail est joie, 
Vous qui n’avez pas d’autre proie 
Que les parfums, souffles du ciel, 
Vous qui fuyez quand vient décembre, 
Vous qui dérobez aux fleurs l’ambre 
Pour donner aux hommes le miel, 

Chastes buveuses de rosée, 
Qui, pareilles à l’épousée, 
Visitez le lys du coteau, 
Ô sœurs des corolles vermeilles, 
Filles de la lumière, abeilles, 
Envolez-vous de ce manteau! 

Ruez-vous sur l’homme, guerrières! 
Ô généreuses ouvrières, 

Vous le devoir, vous la vertu, 
Ailes d’or et flèches de flamme, 
Tourbillonnez sur cet infâme! 
Dites-lui: «Pour qui nous prends-tu? 

»Maudit! nous sommes les abeilles! 
Des chalets ombragés de treilles 
Notre ruche orne le fronton; 
Nous volons, dans l’azur écloses, 
Sur la bouche ouverte des roses 
Et sur les lèvres de Platon. 

»Ce qui sort de la fange y rentre. 
Va trouver Tibère en son antre, 
Et Charles neuf sur son balcon. 
Va! sur ta pourpre il faut qu’on mette, 
Non les abeilles de l’Hymette, 
Mais l’essaim noir de Montfaucon!» 

Et percez-le toutes ensemble, 
Faites honte au peuple qui tremble, 
Aveuglez l’immonde trompeur, 
Acharnez-vous sur lui, farouches, 
Et qu’il soit chassé par les mouches 
Puisque les hommes en ont peur!

Ồ! các em mà lao động là vui 
Các cô em không kiếm mồi nào khác 
Ngoài hương thơm, hơi thở của trời 
Tháng chạp về, các em đi trốn 
Hổ phách của hoa, các em lấy trộm 
Để làm mật ngọt cho người 

Các cô em trong trắng hút sương mai 
Ong ơi ong, giống cô dâu mới cưới 
Ong đi thăm hoa huệ trên đồi 
Là con của ánh dương phơi phới 
Là em gái những cánh hoa đỏ chói 
Rời bỏ áo bào, ong hãy xa bay! 

Xông vào hắn đi, hỡi ong chiến sĩ 
Ôi các cô thợ hảo tâm 
Nghĩa vụ, các em, đức hạnh, các em 
Bộ cánh vàng và mũi tên rực lửa 
Hãy xoáy tít trên đầu thằng nhục nhã 
Hãy bảo hắn: "Mi nghĩ ta là ai? 

"Ta là ong! hỡi tên khốn kiếp! 
Tổ của ta rợp bóng giàn nho 
Làm đẹp cho các mí nhà nên thơ 
Chúng ta bay, trong trời xanh, bừng nở 
Trên miệng những đoá hồng hé mở 
Vàg trên môi Platon 

"Mi hãy tìm Charles IX trên ban công 
Và đến với Tibère trong hang tối 
Từ bùn thối, phải trở về bùn thối 
Cần thêu lũ quạ đen Montfaucon 
Chứ không phải bầy Hymette ong vàng 
Trên áo mi màu đỏ tía!" 

Hãy nhất tề đâm hắn đi, ong 
Hãy làm cho những kẻ nhát gan xấu hổ 
Hãy lăn xả vào, hung dữ 
Hãy chọc mù tên lừa đảo nhớp nhơ 
Hắn phải bị ong ruồi tống cổ đi 
Bởi vì con người run sợ!


Ái tình và sọ người (Charles Baudelaire, Pháp)

thanksgiving_sunset

L'amour et le crâne

Ái tình và sọ người (Người dịch: Vũ Đình Liên)

L'Amour est assis sur le crâne 
De l'Humanité, 
Et sur ce trône le profane, 
Au rire effronté, 

Souffle gaiement des bulles rondes 
Qui montent dans l'air, 
Comme pour rejoindre les mondes 
Au fond de l'éther. 

Le globe lumineux et frêle 
Prend un grand essor, 
Crève et crache son âme grêle 
Comme un songe d'or. 

J'entends le crâne à chaque bulle 
Prier et gémir: 
— «Ce jeu féroce et ridicule, 
Quand doit-il finir? 

Car ce que ta bouche cruelle 
Eparpille en l'air, 
Monstre assassin, c'est ma cervelle, 
Mon sang et ma chair!»

Ái tình ngồi trên cái sọ 
Của loài người 
Và trên ngai vàng ấy, vị thần tà đạo 
Với cái miệng cười trâng tráo 

Nhí nhảnh thổi 
những bong bóng lên trời 
Như để bay lên tận những nơi xa tắp 
Gặp những bầu trời, trái đất 

Các bong bóng mỏng manh long lanh sáng óng 
Bay vút lên trời nổ 
Và cả linh hồn nhẹ nhàng 
Tan như một giấc mơ vàng 

Ta nghe thấy cái sọ người 
mỗi khi bay lên một bong bóng 
Rên xiết, van xin: "Cái trò chơi khả ố và hung tàn 
Có bao giờ chấm dứt chăng? 

Vì những cái mà miệng người độc ác 
Ôi quái vật giết người 
thổi tan tác lên trời 
Là của ta, óc thịt, máu tươi!"


 

Lời than thở của Icare (Charles Baudelaire, Pháp)

231-8


Les plaintes d'un Icare

Lời than thở của Icare (Người dịch: Vũ Đình Liên)

Les amants des prostituées 
Sont heureux, dispos et repus; 
Quant à moi, mes bras sont rompus 
Pour avoir étreint des nuées. 

C'est grâce aux astres nonpareils, 
Qui tout au fond du ciel flamboient, 
Que mes yeux consumés ne voient 
Que des souvenirs de soleils. 

En vain j'ai voulu de l'espace 
Trouver la fin et le milieu; 
Sous je ne sais quel oeil de feu 
Je sens mon aile qui se casse; 

Et brûlé par l'amour du beau, 
Je n'aurai pas l'honneur sublime 
De donner mon nom à l'abîme 
Qui me servira de tombeau.

Những gã nhân tình của những cô gái điếm 
Thảy đều phè phỡn, hả hê, thoả mãn 
Còn ta, đôi cánh tay ta rã rời 
Vì ôm mãi những đám mây trời 

Chính vì nhìn những ngôi sao rực cháy 
Trên trời cao xa tít mù khơi 
Mà mắt ta sém bỏng rồi, chỉ thấy 
Hào quang xưa của những mặt trời 

Ta đã mất công muốn đo vũ trụ 
Tìm đâu tận cùng đâu chính giữa 
Nhưng có con mắt lửa nào rọi soi 
Cho đôi cánh ta, nóng chảy, rụng rời 

Lòng ta cháy vì khát khao cái đẹp 
Nhưng ta không được  cái vinh quang đặc biệt 
Để lai tim ta cho vực thẳm chôn vùi 
Thân hình ta dưới muôn lớp bể khơi


Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

Khúc chiều tà (Charles Baudelaire, Pháp)

222-4

Harmonie du soir

Khúc chiều tà (Người dịch: Hải Đà )

Voici venir le temps où vibrant sur sa tige 
Chaque fleur s'évapore ainsi qu'un encensoir; 
Les sons et les parfums tournent dans l'air du soir; 
Valse mélancolique et langoureux vertige! 

Chaque fleur s'évapore ainsi qu'un encensoir; 
Le violon frémit comme un coeur qu'on afflige; 
Valse mélancolique et langoureux vertige! 
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir. 

Le violon frémit comme un coeur qu'on afflige, 
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir! 
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir; 
Le soleil s'est noyé dans son sang qui se fige. 

Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir, 
Du passé lumineux recueille tout vestige! 
Le soleil s'est noyé dans son sang qui se fige... 
Ton souvenir en moi luit comme un ostensoir!

Kìa .. run rẩy trên cành xanh tha thướt 
Những bông hoa kiều diễm ngát thơm nhang 
Muôn tiếng động giữa trời hương lồng lộng 
Điệu valse buồn xây xẩm ngực râm ran 

Từng cánh hoa như hương trầm tỏa ngát 
Tiếng vĩ cầm run khẽ thắt tim đau 
Thân mệt lả điệu valse buồn xơ xác 
Chiếc bình hương lộng lẫy đẹp khung sầu 

Quặn tim đau tiếng vĩ cầm khe khẽ 
Trái tim mềm oán hận cảnh hư vô 
Trời ủ rũ trên bình hương bát ngát 
Ánh dương tàn trong giọt máu đông khô 

Cõi hư không trái tim mềm oán ghét 
Vết tích tìm trong quá khứ lung linh 
Dòng máu đông từ mặt trời đã lặn 
Bình thánh linh rực rỡ chuyện đôi mình

  

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

Pyotr Ilyich Tchaikovsky

Pyotr Ilyich Tchaikovsky  (1840-1893 )
là một nhà soạn nhạc người Nga thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Dù không phải là một thành phần của nhóm nhạc theo chủ nghĩa dân tộc "The Five" nhưng Tchaikovsky lại sáng tác các nhạc phẩm đậm chất Nga theo một lối rất riêng biệt: ngân vang, sâu lắng, sự hòa hợp và giai điệu được phản ánh qua điệu nhạc.
Tchaikovsky Symphony No 4

Tchaikovsky Piano Concerto No 1

Tchaikovsky &Johannes Brahms

Tchaikovsky

Tchaikovsky Không giống như hầu hết những nhà soạn nhạc Nga cùng thời, Tchaikovsky không được sinh ra trong một gia đình nông thôn hay dòng dõi quý tộc. Cha của ông, ông Ilya Petrovich là một kĩ sư mỏ, làm việc tại một thị trấn nhỏ ở Votsink - nơi cậu bé Peter là người thứ hai trong số sáu anh chị em được sinh ra vào ngày mùng 7 tháng 5 năm 1840. Mẹ của ông, Alexandra Andreyevna Assier, xuất thân từ một gia đình nhập cư từ Pháp. Và theo thói quen của những gia đình khá giả ở Nga, Peter bắt đầu học các bài tập piano đầu tiên từ rất sớm. Cha của ông chuyển đến St Petersburg vào năm 1850 và Peter được chọn vào học trường Luật ở đó. Sau đó, ông vào làm thư ký ở Bộ Tư pháp.
Vốn là một người cuốn hút, lịch thiệp và có học thức, Tchaikovsky có mặt tại tất cả các phòng khách sang trọng của St Petersburg và trò chuyện dễ dàng với họ về sân khấu và văn học một cách tự tin. Công việc của ông (không phải là nghề đòi hỏi đặc biệt) chỉ là sự cần thiết về tài chính không hơn và âm nhạc cũng không phải là niềm yêu thích lẫn trò tiêu khiển duy nhất của ông.
Tuy nhiên, sự phiền muộn và chán nản đã đến với Tchaikovsky khi ông 14 tuổi, sau cái chết đột ngột của mẹ ông trong thời gian bệnh dịch tả lan truyền và nỗi buồn chán ấy đã ngày càng tăng lên. Được sự động viên của người thân và bạn bè, Tchaikovsky muốn hiểu biết sâu hơn về âm nhạc - lĩnh vực này đã trở thành niềm an ủi lớn đối với ông. Vào mùa thu năm 1861, ông đã học một lớp lý luận âm nhạc với một trong những giáo viên ngiêm khắc và kỳ cựu nhất St Peterburg, thầy Nikolai Zaremba, người đầu tiên đã nhận ra đầy đủ tài năng của Tchaikovsky và đã khích lệ ông học hành một cách nghiêm túc (dù rằng thầy Zaremba đã phải nỗ lực vượt qua sự thờ ơ của cậu học sinh mình). Tchaikovsky đã từng nói: “Giả sử tôi có tài năng thật nhưng điều đó không có nghĩa là tôi có khả năng học ngay lúc này. Tôi đã trở thành một công chức và tôi không giỏi lắm ở công việc này. Tôi đang làm tất cả những gì để mình có thể tiến bộ hơn, nhưng làm thế nào tôi có thể vừa đi làm vừa học nhạc cùng một lúc được?”. Rồi những hoài nghi cũng qua đi nhưng Tchaikovsky chẳng chứng tỏ được gì hơn là một câu học trò lười nhác. Vào năm 1862, ông đăng ký vào học tại Nhạc viện St. Perterburg mới được thành lập; tại đây, ông tiếp tục các bài học về hoà thanh và đối vị với Zaremba và soạn nhạc và phối khí với Anton Rubinstein - người đã thuyết phục được Tchaikovsky bỏ công việc cũ của mình và tìm cho ông những học sinh của các lớp học tư để ông dạy nhằm cải thiện phần nào vấn đề tài chính đang đè nặng lên vai Tchaikovsky do sức khoẻ ngày một yếu của cha ông. Niềm vui của Tchaikovsky khi từ bỏ công việc cũ đã thể hiện rất rõ trong những dòng thư mà ông đã gửi cho chị gái mình: “... Một điều mà em chắc chắn đó là: em sẽ trở thành một nhạc sỹ giỏi và em sẽ có thể tự nuôi sống bản thân mình... Khi em hoàn thành xong việc học tập, em mong rằng sẽ được ở cùng chị trong suốt một năm để em có thể sáng tác được một tác phẩm vĩ đại thực sự tại ngôi nhà yên tĩnh, thanh bình của chị. Sau đó... là đi vòng quanh thế giới!”
Tchaikovsky cùng gia đình năm 1848
Tchaikovsky cùng gia đình năm 1848

Tchaikovsky cùng bạn và anh em (ảnh chụp năm 1875):
Từ trái sang  Kondratiev, Modest, Anatoli và Peter

Đại lộ Nevsky năm 1835
Tchaikovsky hoàn thành việc học tập của mình tại nhạc viện là vào năm 1965. Tác phẩm cho kỳ thi tốt nghiệp của ông là một bản catata to Joy, soạn cho các ca sĩ solo, dàn hợp xướng và dàn nhạc dựa trên lời thơ nổi tiếng của Schiller, và tác phẩm này đã đem lại cho ông huy chương bạc và rất nhiều lời khen ngợi. Tuy nhiên các sáng tác khác của ông thời kỳ này cũng chỉ giành được sự yêu thích tương đối. Vào đầu năm 1866, anh trai của Anton Rubinstein là Nikolai đã mời Tchaikovsky làm giảng viên môn hoà thanh tại một nhạc viện mà ông mới thành lập tại Moscow. Tchaikovsky đã nhanh chóng đồng ý và chuyển tới thủ đô nước Nga cổ kính này, bắt đầu cuộc sống của một nhạc sỹ chuyên nghiệp.
“Em đã dần dần quen với cuộc sống ở Moscow, nhưng sự cô đơn làm em cảm thấy buồn chán. Những giờ giảng lý thuyết của em đã thành công tới mức tất cả những nỗi lo sợ ấy giờ đây đã tiêu tan và em đã bắt đầu như một giáo viên thực thụ... Em đang sống ở nhà thầy Rubinstein. Ông ấy quả là một con người tốt bụng và hiểu biết, hoàn toàn trái ngược với người em trai khó tính của ông ấy. Ông ta cho em một phòng ở ngay cạnh phòng ngủ của ông. Khi ông ta đã ngủ, em luôn lo lắng rằng tiếng sột soạt từ cây viết của em sẽ làm phiền tới ông ấy vì bức tường ngăn cách hai phòng rất mỏng”.
Tchaikovsky tiếp tục công việc soạn nhạc một cách chăm chỉ, với sự giúp đỡ rất lớn từ những lời khuyên về chuyên môn của Nikolai Rubinstein.
Ông đã viết một overture giọng Fa trưởng vào năm 1866 và nó đã được biểu diễn ở Moscow vào ngày 16 tháng 3 năm đó. Ông cũng sáng tác một Festival Overture giọng Rê trưởng, Op. 15 (có lẽ đây là tác phẩm hay nhất của ông trong giai đoạn này) dựa trên quốc ca Đan Mạch và bản Giao hưởng số 1 giọng Son thứ “Winter Daydreams” (Những giấc mơ mùa đông).
Những tìm tòi của Tchaikovsky về nền âm nhạc Nga đã được thể hiện trong vở opera đầu tiên của ông The Voyevoda, bắt đầu viết năm 1867 với phần lời của Ostrovsky. Vở opera này đã được công diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Bolshoi, Moscow vào ngày 11 tháng 2 năm 1869. Trong một thời gian ngắn sống ở St. Peterburg vào mùa xuân năm 1868, Tchaikovsky đã có được mối quan hệ với một nhóm các nhà soạn nhạc người Nga, được biết đến với cái tên “Nhóm 5 người” (bao gồm Balakirev, Mussorgsky, Rimsky-Korsakov, Borodin và Cui) mặc dù không có cách nào giúp Tchaikovsky có thể chia sẻ được với họ nguồn cảm hứng trong tư tưởng và tâm hồn của xu hướng dân tộc Nga. Và dẫu rằng Tchaikovsky đã sống phần lớn cuộc đời của ông tại Moscow - trái tim của nước Nga cổ kính - nhưng ông chưa bao giờ thấy thực sự cần thiết phải học soạn nhạc trong một ngôi trường truyền thống. Mối liên hệ giữa các nghiên cứu rộng lớn của ông tại nhạc viện St. Peterburg (pháo đài của nền âm nhạc phương Tây ở Nga), nguồn gốc một phần không phải người Nga của Tchaikovsky và tầm quan trọng của cô gia sư người Thụy Sĩ thời thơ ấu của ông - Fanny Durbach - đã hướng năng lực sáng tạo của ông theo hướng tân lãng mạn  và trung thành với nguyên tắc: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Giulio Confalonieri đã nhận xét về âm nhạc của Tchaikovsky: “Chúng ta nhận thấy một sự hiện diện liên tục, một nỗi âu sầu “nữ tính”, một sự suy nhược siết chặt lấy nỗi u uất tinh thần lẫn một dạng mơ hồ của sự chán đời. Chính sự suy nhược và âu sầu này vừa là động lực đằng sau các các tác phẩm của ông vừa là một sự thật về thẩm mĩ và con người mà người ta tìm kiếm để truyền đạt. Thực ra mà nói cái đã lôi cuốn Tchaikovsky đến với các bài hát Nga và những điệu nhảy được ưa chuộng không phải bắt nguồn từ việc phục hồi lại tính chủ nghĩa dân tộc mà từ nỗi âu sầu buồn bã, nỗi nuối tiếc của một tâm trạng khi biết một người không thể chơi một trò chơi nào đó, một hình ảnh về những điều tốt đẹp nhưng bị phủ nhận, sự mất mát từ chính lúc khởi đầu bởi sự vận hành của một số phận cá nhân bị xa lánh, khước từ, loại bỏ”.
Mối tình thực sự đầu tiên trong cuộc đời của Tchaikovsky với ca sĩ người Bỉ Désirée Artôt vào năm 1868 đã có kết cục không mấy tốt đẹp. Bản thơ giao hưởng Fate (Định mệnh), Op.77 được sáng tác trong năm này và một năm sau đó là sự ra đời của tác phẩm quan trọng hơn Overture “Romeo và Juliet” - đây là tác phẩm đã được công diễn nhiều nhất trong số tất cả các tác phẩm của ông.
Mặc dù vở opera kế tiếp của Tchaikovsky The Oprichnik (1870 - 1872) - có một chủ đề về nước Nga rất đặc trưng, lấy bối cảnh thời đại của Ivan bạo chúa nhưng vở opera vẫn đan xen những giai điệu và vũ điệu của Nga với tính kịch của Ý. Tuy nhiên ông đã tạo ra nhiều hơn những yếu tố truyền thống trong bản giao hưởng số 2 “Little Russian” (nước Nga nhỏ) giọng Đô thứ, Op. 17, được tạo nguồn cảm hứng từ văn học dân gian Ukraine. Bản tứ tấu đàn dây giọng Rê trưởng, Op. 11, được viết vào năm 1871, chịu ảnh hưởng của “Nhóm 5 người” và đây là tác phẩm thính phòng thành công nhất của ông.
Tuy nhiên, cuộc sống của Tchaikovsky chưa bao giờ ở trạng thái cân bằng. Sự nghiệp sáng tác của ông dường như càng được toại nguyện bao nhiêu cả về tính chuyên nghiệp cũng như về mặt tài chính thì cuộc sống của ông với tư cách là một giáo viên tại nhạc viện ngày càng trở nên không chịu đựng nổi. Tuy vậy nhưng âm nhạc của ông thời kỳ này không mang tính tự sự sâu sắc như các tác phẩm sau này của ông. Trái lại, khát vọng của ông là dường như là muốn gây ấn tượng với công chúng với những tác phẩm chói sáng, có trình độ kỹ thuật cao. Và Tchaikovsky đã gặt hái được kết quả trong một số tác phẩm như: bản giao hưởng số 3 “Polish” (Ba Lan) gịong Rê trưởng, Op. 29 (1875); fantasy-overture “Francesca da Rimini”, Op.32 (1876); vở ballet The Swan lake (Hồ thiên nga), Op.20 (1875 - 1876) và bản Concerto số 1 cho Piano và dàn nhạc giọng Si giáng thứ, Op. 23 (1874 - 1875).

Hình ảnh vở ballet Hồ thiên nga

Một cảnh trong ballet Kẹp hạt dẻ
Thông qua sự giúp đỡ của một trong những học sinh của mình - người đã tham dự những đêm diễn do Nadezhda von Meck - nguời phụ nữ quí tộc này đã bắt đầu quan tâm đến Tchaikovsky và nghe một số tác phẩm của ông. Năm 1876, bà đã nhiệt tình viết thư cho ông và mời ông làm việc. Cứ như thế bắt đầu một tình bạn thắm thiết, kỳ lạ nhất trong lịch sử âm nhạc. Họ đã duy trì được mối quan hệ thân thiết này trong suốt 13 năm mặc dù đôi bạn này chưa hề gặp mặt và thậm chí còn chưa từng nghe thấy giọng nói của nhau trong khi họ sống trong cùng một thành phố. Năm 1877, cuộc hôn nhân của nhà soạn nhạc nổi tiếng này với Atonina Milyukova thực sự là một thảm hoạ khi nó kéo dài chỉ có vài ngày và kết thúc bằng việc Tchaikovsky trở về với chị của ông tại điền trang ở Kamenta. Sự việc này đã gây chấn động mạnh tới tính cách vốn dĩ đã không ổn định của ông và đẩy ông đến sự suy sụp tinh thần nặng nề. Các bác sĩ đã lo lắng đến nỗi họ khuyên ông phải thay đổi hoàn toàn cách sống của mình và tháng 10 năm đó, ông cùng em trai mình là Anatole đã dời đến Moscow. Cuộc hôn nhân đó đã được giải quyết bằng các thủ tục ly dị.
Nadezhda von Mekk
Nadezhda von Mekk
Âm nhạc của Tchaikovsky đã thay đổi đáng kể kể từ thời điểm đó. Sự suy sụp về tinh thần và đức tin của Tchaikovsky vào năm 1877 đã được phản ánh một cách thường xuyên trong các tác phẩm đến mức mỗi nốt nhạc đều tràn ngập nỗi thống khổ của ông cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Điều này thể hiện rất rõ trong bản Giao hưởng số 4 giọng Fa thứ được viết vào năm 1877 - tác phẩm này ông dành tặng cho Nadezhda von Meck. Tchaikovsky cũng đã đi du lịch một thời gian ở Ý và ở đây ông đã viết xong một vở opera du dương đến lạ thường - vở Eugene Onegin. Vở opera này được công diễn lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 3 năm 1879 tại Nhà hát Malyj, Moscow. Lúc đó Tchaikovsky sáng tác rất nhanh, bà Nadezhda von Meck đã hào phóng hỗ trợ ông một khoản tiền hàng năm là 6000 rúp, điều này đã tạo điều kiện cho ông rời khỏi cái nhạc viện đáng sợ đó và bắt đầu một cuộc sống xa hoa ở Moscow và những chuyến du lịch hết đến Pháp lại đến Ý. Cuộc sống thường nhật của Tchaikovsky lúc này không có gì đặc biệt như những thành công về mặt chuyên môn trong các sáng tác của ông. Trong suốt 15 năm còn lại của cuộc đời, ông đã sáng tác được thêm 2 bản concerto cho piano và dàn nhạc: bản số 2 giọng Son trưởng, Op.44 (1879 - 1880) và số 3 giọng Mi giáng trưởng, Op. 75 (1893), một bản concerto tuyệt vời cho violin và dàn nhạc giọng Rê trưởng, Op. 35 (1878) và một tam tấu đàn dây giọng La thứ, Op. 50 - tác phẩm này đề tặng Nikolai Rubinstein.

Từ trái sang: Nikolai và Anton Rubinstein
Nhiều nhà phê bình cho rằng vở opera hay nhất của ông là vở The Queen of Spades (Con đầm bích) được sáng tác vào năm 1890 theo chủ đề Định mệnh mà ông yêu thích (tuy rằng trên thực tế thì Eugene Onegin vẫn được yêu thích hơn), được nhấn mạnh một cách ấn tượng bằng các giai điệu lặp lại mạnh mẽ. Tuy nhiên thời kỳ này tác phẩm xuất sắc nhất của ông là các tác phẩm viết cho dàn nhạc gồm có: 4 tổ khúc (trong đó tổ khúc thứ 4 “Mozartina là một chuyển soạn); Capriccio Italien, Op.45 (1880); Overture 1812 Op. 49 vĩ đại (1880); thơ giao hưởng Manfred, Op. 58 (1885) và giao hưởng số 5 giọng Mi thứ, Op.64 (1888). Vở ballet nổi tiếngThe Sleeping beauty (Người đẹp ngủ) được sáng tác vào năm 1890, sau đó là một vở ballet khác The Nutcracker (Kẹp hạt dẻ), Op.71 (1891 - 1892) duyên dáng nhưng cũng chỉ là một vở ballet ở mức trung bình giống như hai vở trước đó là The Swan LakeThe Sleeping beauty. Tuy nhiên, trong khi nét trữ tình, chậm rãi của hai vở ballet trước chỉ thường xoay quanh sự sướt mướt, uỷ mị thì vở ballet The Nutcrackernày đã hoàn toàn tránh được nguy cơ đó, với một chủ đề cho phép Tchaikovsky có thể thể hiện khả năng mô tả tính cách bằng âm nhạc (tiến gần đến sự lố bịch) ở mức tự tin chói sáng nhất. Âm nhạc của Tchaikovsky dành cho vở ballet này cho thấy một tầm ảnh hưởng đáng ngạc nhiên của các sáng tác khí nhạc và sự phối âm đã đạt tới đỉnh cao trong trích đoạn “Waltz of flowers” (Điệu Waltz của những bông hoa) đầy xúc động. Chủ đề Định mệnh đã quay trở lại một lần nữa trong bản giao hưởng số 6 “Pathétique” được sáng tác vào năm 1893 - tác phẩm vĩ đại và mang nhiều khát vọng nhất của ông. Trong một lá thư gửi cho cháu trai của mình Vladimir Davidov (‘Bob’) viết vào tháng 2 năm 1893, khi đang sáng tác bản giao hưởng này, Tchaikovsky đã viết: “Chú ước rằng mình có thể diễn tả hết được tâm trạng vui sướng mà chú đã gửi gắm vào trong tác phẩm mới này. Cháu sẽ hồi tưởng thấy vào một mùa thu, chú đã huỷ đi cái phần hay nhất trong bản giao hưởng mà chú vừa hoàn thành. Chú đã đúng khi bỏ nó đi vì nó chỉ là một ngón nghề, một bí quyết không mấy giá trị, một sự phô diễn trống rỗng của những nốt nhạc không chứa đựng nguồn cảm hứng thực sự. Thật tuyệt, trong suốt chuyến đi của chú tới Paris, chú đã có ý tưởng cho một bản giao hưởng mới dựa trên một chủ đề mà chú ước rằng không ai biết về nó, một chủ đề đã được giữ bí mật kỹ đến mức không ai có thể khám phá ra nó thậm chí ngay cả khi họ đã vắt óc ra để tưởng tượng. Khi nó được công diễn, chương trình này sẽ dần dần truyền tải những cảm giác riêng tư nhất của chú. Trong chuyến đi, khi phác hoạ bản giao hưởng trong đầu, chú đã hơn một lần phải bật khóc, cứ như thể bị rơi vào tình trạng tuyệt vọng hoàn toàn. Trên đường trở về, chú đã bắt đầu viết và miệt mài đến mức chú đã viết xong phần đầu trong chưa đầy 4 ngày và các phần khác đã được định hình rõ nét trong đầu chú. Về nhiều khía cạnh, bản giao hưởng này rất khác thường. Ví dụ, chương cuối là một nhịp adagio chậm thay vì nhịp allegro ầm ĩ. Cháu không thể hình dung được chú hạnh phúc như thế nào khi biết rằng chú chưa hề kết thúc, rằng chú vẫn còn có thể sáng tạo”.
Biệt thự nơi Tchaikovsky ở giai đoạn cuối đời
Biệt thự nơi Tchaikovsky ở giai đoạn cuối đời
Tchaikovsky đã chỉ huy buổi công diễn lần đầu tiên bản “Pathétique” này ở St Peterburg vào ngày 28 tháng 10 năm 1893 trong khi bệnh dịch tả đang hoành hành tại thành phố này. Một vài ngày sau, trong khi ăn tối cùng vài người bạn tại một nhà hàng, ông đã uống một cốc nước sông Neva (có thể đây là chủ ý của ông). Và ông đã chết trong sự đau đớn vào ngày mùng 6 tháng 11.

Pyotr Ilyich Tchaikovsky

Pyotr Ilyich Tchaikovsky  (1840-1893 )
là một nhà soạn nhạc người Nga thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Dù không phải là một thành phần của nhóm nhạc theo chủ nghĩa dân tộc "The Five" nhưng Tchaikovsky lại sáng tác các nhạc phẩm đậm chất Nga theo một lối rất riêng biệt: ngân vang, sâu lắng, sự hòa hợp và giai điệu được phản ánh qua điệu nhạc.
Tchaikovsky Symphony No 4

Tchaikovsky Piano Concerto No 1

Tchaikovsky &Johannes Brahms

Tchaikovsky

Tchaikovsky Không giống như hầu hết những nhà soạn nhạc Nga cùng thời, Tchaikovsky không được sinh ra trong một gia đình nông thôn hay dòng dõi quý tộc. Cha của ông, ông Ilya Petrovich là một kĩ sư mỏ, làm việc tại một thị trấn nhỏ ở Votsink - nơi cậu bé Peter là người thứ hai trong số sáu anh chị em được sinh ra vào ngày mùng 7 tháng 5 năm 1840. Mẹ của ông, Alexandra Andreyevna Assier, xuất thân từ một gia đình nhập cư từ Pháp. Và theo thói quen của những gia đình khá giả ở Nga, Peter bắt đầu học các bài tập piano đầu tiên từ rất sớm. Cha của ông chuyển đến St Petersburg vào năm 1850 và Peter được chọn vào học trường Luật ở đó. Sau đó, ông vào làm thư ký ở Bộ Tư pháp.
Vốn là một người cuốn hút, lịch thiệp và có học thức, Tchaikovsky có mặt tại tất cả các phòng khách sang trọng của St Petersburg và trò chuyện dễ dàng với họ về sân khấu và văn học một cách tự tin. Công việc của ông (không phải là nghề đòi hỏi đặc biệt) chỉ là sự cần thiết về tài chính không hơn và âm nhạc cũng không phải là niềm yêu thích lẫn trò tiêu khiển duy nhất của ông.
Tuy nhiên, sự phiền muộn và chán nản đã đến với Tchaikovsky khi ông 14 tuổi, sau cái chết đột ngột của mẹ ông trong thời gian bệnh dịch tả lan truyền và nỗi buồn chán ấy đã ngày càng tăng lên. Được sự động viên của người thân và bạn bè, Tchaikovsky muốn hiểu biết sâu hơn về âm nhạc - lĩnh vực này đã trở thành niềm an ủi lớn đối với ông. Vào mùa thu năm 1861, ông đã học một lớp lý luận âm nhạc với một trong những giáo viên ngiêm khắc và kỳ cựu nhất St Peterburg, thầy Nikolai Zaremba, người đầu tiên đã nhận ra đầy đủ tài năng của Tchaikovsky và đã khích lệ ông học hành một cách nghiêm túc (dù rằng thầy Zaremba đã phải nỗ lực vượt qua sự thờ ơ của cậu học sinh mình). Tchaikovsky đã từng nói: “Giả sử tôi có tài năng thật nhưng điều đó không có nghĩa là tôi có khả năng học ngay lúc này. Tôi đã trở thành một công chức và tôi không giỏi lắm ở công việc này. Tôi đang làm tất cả những gì để mình có thể tiến bộ hơn, nhưng làm thế nào tôi có thể vừa đi làm vừa học nhạc cùng một lúc được?”. Rồi những hoài nghi cũng qua đi nhưng Tchaikovsky chẳng chứng tỏ được gì hơn là một câu học trò lười nhác. Vào năm 1862, ông đăng ký vào học tại Nhạc viện St. Perterburg mới được thành lập; tại đây, ông tiếp tục các bài học về hoà thanh và đối vị với Zaremba và soạn nhạc và phối khí với Anton Rubinstein - người đã thuyết phục được Tchaikovsky bỏ công việc cũ của mình và tìm cho ông những học sinh của các lớp học tư để ông dạy nhằm cải thiện phần nào vấn đề tài chính đang đè nặng lên vai Tchaikovsky do sức khoẻ ngày một yếu của cha ông. Niềm vui của Tchaikovsky khi từ bỏ công việc cũ đã thể hiện rất rõ trong những dòng thư mà ông đã gửi cho chị gái mình: “... Một điều mà em chắc chắn đó là: em sẽ trở thành một nhạc sỹ giỏi và em sẽ có thể tự nuôi sống bản thân mình... Khi em hoàn thành xong việc học tập, em mong rằng sẽ được ở cùng chị trong suốt một năm để em có thể sáng tác được một tác phẩm vĩ đại thực sự tại ngôi nhà yên tĩnh, thanh bình của chị. Sau đó... là đi vòng quanh thế giới!”
Tchaikovsky cùng gia đình năm 1848
Tchaikovsky cùng gia đình năm 1848

Tchaikovsky cùng bạn và anh em (ảnh chụp năm 1875):
Từ trái sang  Kondratiev, Modest, Anatoli và Peter

Đại lộ Nevsky năm 1835
Tchaikovsky hoàn thành việc học tập của mình tại nhạc viện là vào năm 1965. Tác phẩm cho kỳ thi tốt nghiệp của ông là một bản catata to Joy, soạn cho các ca sĩ solo, dàn hợp xướng và dàn nhạc dựa trên lời thơ nổi tiếng của Schiller, và tác phẩm này đã đem lại cho ông huy chương bạc và rất nhiều lời khen ngợi. Tuy nhiên các sáng tác khác của ông thời kỳ này cũng chỉ giành được sự yêu thích tương đối. Vào đầu năm 1866, anh trai của Anton Rubinstein là Nikolai đã mời Tchaikovsky làm giảng viên môn hoà thanh tại một nhạc viện mà ông mới thành lập tại Moscow. Tchaikovsky đã nhanh chóng đồng ý và chuyển tới thủ đô nước Nga cổ kính này, bắt đầu cuộc sống của một nhạc sỹ chuyên nghiệp.
“Em đã dần dần quen với cuộc sống ở Moscow, nhưng sự cô đơn làm em cảm thấy buồn chán. Những giờ giảng lý thuyết của em đã thành công tới mức tất cả những nỗi lo sợ ấy giờ đây đã tiêu tan và em đã bắt đầu như một giáo viên thực thụ... Em đang sống ở nhà thầy Rubinstein. Ông ấy quả là một con người tốt bụng và hiểu biết, hoàn toàn trái ngược với người em trai khó tính của ông ấy. Ông ta cho em một phòng ở ngay cạnh phòng ngủ của ông. Khi ông ta đã ngủ, em luôn lo lắng rằng tiếng sột soạt từ cây viết của em sẽ làm phiền tới ông ấy vì bức tường ngăn cách hai phòng rất mỏng”.
Tchaikovsky tiếp tục công việc soạn nhạc một cách chăm chỉ, với sự giúp đỡ rất lớn từ những lời khuyên về chuyên môn của Nikolai Rubinstein.
Ông đã viết một overture giọng Fa trưởng vào năm 1866 và nó đã được biểu diễn ở Moscow vào ngày 16 tháng 3 năm đó. Ông cũng sáng tác một Festival Overture giọng Rê trưởng, Op. 15 (có lẽ đây là tác phẩm hay nhất của ông trong giai đoạn này) dựa trên quốc ca Đan Mạch và bản Giao hưởng số 1 giọng Son thứ “Winter Daydreams” (Những giấc mơ mùa đông).
Những tìm tòi của Tchaikovsky về nền âm nhạc Nga đã được thể hiện trong vở opera đầu tiên của ông The Voyevoda, bắt đầu viết năm 1867 với phần lời của Ostrovsky. Vở opera này đã được công diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Bolshoi, Moscow vào ngày 11 tháng 2 năm 1869. Trong một thời gian ngắn sống ở St. Peterburg vào mùa xuân năm 1868, Tchaikovsky đã có được mối quan hệ với một nhóm các nhà soạn nhạc người Nga, được biết đến với cái tên “Nhóm 5 người” (bao gồm Balakirev, Mussorgsky, Rimsky-Korsakov, Borodin và Cui) mặc dù không có cách nào giúp Tchaikovsky có thể chia sẻ được với họ nguồn cảm hứng trong tư tưởng và tâm hồn của xu hướng dân tộc Nga. Và dẫu rằng Tchaikovsky đã sống phần lớn cuộc đời của ông tại Moscow - trái tim của nước Nga cổ kính - nhưng ông chưa bao giờ thấy thực sự cần thiết phải học soạn nhạc trong một ngôi trường truyền thống. Mối liên hệ giữa các nghiên cứu rộng lớn của ông tại nhạc viện St. Peterburg (pháo đài của nền âm nhạc phương Tây ở Nga), nguồn gốc một phần không phải người Nga của Tchaikovsky và tầm quan trọng của cô gia sư người Thụy Sĩ thời thơ ấu của ông - Fanny Durbach - đã hướng năng lực sáng tạo của ông theo hướng tân lãng mạn  và trung thành với nguyên tắc: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Giulio Confalonieri đã nhận xét về âm nhạc của Tchaikovsky: “Chúng ta nhận thấy một sự hiện diện liên tục, một nỗi âu sầu “nữ tính”, một sự suy nhược siết chặt lấy nỗi u uất tinh thần lẫn một dạng mơ hồ của sự chán đời. Chính sự suy nhược và âu sầu này vừa là động lực đằng sau các các tác phẩm của ông vừa là một sự thật về thẩm mĩ và con người mà người ta tìm kiếm để truyền đạt. Thực ra mà nói cái đã lôi cuốn Tchaikovsky đến với các bài hát Nga và những điệu nhảy được ưa chuộng không phải bắt nguồn từ việc phục hồi lại tính chủ nghĩa dân tộc mà từ nỗi âu sầu buồn bã, nỗi nuối tiếc của một tâm trạng khi biết một người không thể chơi một trò chơi nào đó, một hình ảnh về những điều tốt đẹp nhưng bị phủ nhận, sự mất mát từ chính lúc khởi đầu bởi sự vận hành của một số phận cá nhân bị xa lánh, khước từ, loại bỏ”.
Mối tình thực sự đầu tiên trong cuộc đời của Tchaikovsky với ca sĩ người Bỉ Désirée Artôt vào năm 1868 đã có kết cục không mấy tốt đẹp. Bản thơ giao hưởng Fate (Định mệnh), Op.77 được sáng tác trong năm này và một năm sau đó là sự ra đời của tác phẩm quan trọng hơn Overture “Romeo và Juliet” - đây là tác phẩm đã được công diễn nhiều nhất trong số tất cả các tác phẩm của ông.
Mặc dù vở opera kế tiếp của Tchaikovsky The Oprichnik (1870 - 1872) - có một chủ đề về nước Nga rất đặc trưng, lấy bối cảnh thời đại của Ivan bạo chúa nhưng vở opera vẫn đan xen những giai điệu và vũ điệu của Nga với tính kịch của Ý. Tuy nhiên ông đã tạo ra nhiều hơn những yếu tố truyền thống trong bản giao hưởng số 2 “Little Russian” (nước Nga nhỏ) giọng Đô thứ, Op. 17, được tạo nguồn cảm hứng từ văn học dân gian Ukraine. Bản tứ tấu đàn dây giọng Rê trưởng, Op. 11, được viết vào năm 1871, chịu ảnh hưởng của “Nhóm 5 người” và đây là tác phẩm thính phòng thành công nhất của ông.
Tuy nhiên, cuộc sống của Tchaikovsky chưa bao giờ ở trạng thái cân bằng. Sự nghiệp sáng tác của ông dường như càng được toại nguyện bao nhiêu cả về tính chuyên nghiệp cũng như về mặt tài chính thì cuộc sống của ông với tư cách là một giáo viên tại nhạc viện ngày càng trở nên không chịu đựng nổi. Tuy vậy nhưng âm nhạc của ông thời kỳ này không mang tính tự sự sâu sắc như các tác phẩm sau này của ông. Trái lại, khát vọng của ông là dường như là muốn gây ấn tượng với công chúng với những tác phẩm chói sáng, có trình độ kỹ thuật cao. Và Tchaikovsky đã gặt hái được kết quả trong một số tác phẩm như: bản giao hưởng số 3 “Polish” (Ba Lan) gịong Rê trưởng, Op. 29 (1875); fantasy-overture “Francesca da Rimini”, Op.32 (1876); vở ballet The Swan lake (Hồ thiên nga), Op.20 (1875 - 1876) và bản Concerto số 1 cho Piano và dàn nhạc giọng Si giáng thứ, Op. 23 (1874 - 1875).

Hình ảnh vở ballet Hồ thiên nga

Một cảnh trong ballet Kẹp hạt dẻ
Thông qua sự giúp đỡ của một trong những học sinh của mình - người đã tham dự những đêm diễn do Nadezhda von Meck - nguời phụ nữ quí tộc này đã bắt đầu quan tâm đến Tchaikovsky và nghe một số tác phẩm của ông. Năm 1876, bà đã nhiệt tình viết thư cho ông và mời ông làm việc. Cứ như thế bắt đầu một tình bạn thắm thiết, kỳ lạ nhất trong lịch sử âm nhạc. Họ đã duy trì được mối quan hệ thân thiết này trong suốt 13 năm mặc dù đôi bạn này chưa hề gặp mặt và thậm chí còn chưa từng nghe thấy giọng nói của nhau trong khi họ sống trong cùng một thành phố. Năm 1877, cuộc hôn nhân của nhà soạn nhạc nổi tiếng này với Atonina Milyukova thực sự là một thảm hoạ khi nó kéo dài chỉ có vài ngày và kết thúc bằng việc Tchaikovsky trở về với chị của ông tại điền trang ở Kamenta. Sự việc này đã gây chấn động mạnh tới tính cách vốn dĩ đã không ổn định của ông và đẩy ông đến sự suy sụp tinh thần nặng nề. Các bác sĩ đã lo lắng đến nỗi họ khuyên ông phải thay đổi hoàn toàn cách sống của mình và tháng 10 năm đó, ông cùng em trai mình là Anatole đã dời đến Moscow. Cuộc hôn nhân đó đã được giải quyết bằng các thủ tục ly dị.
Nadezhda von Mekk
Nadezhda von Mekk
Âm nhạc của Tchaikovsky đã thay đổi đáng kể kể từ thời điểm đó. Sự suy sụp về tinh thần và đức tin của Tchaikovsky vào năm 1877 đã được phản ánh một cách thường xuyên trong các tác phẩm đến mức mỗi nốt nhạc đều tràn ngập nỗi thống khổ của ông cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Điều này thể hiện rất rõ trong bản Giao hưởng số 4 giọng Fa thứ được viết vào năm 1877 - tác phẩm này ông dành tặng cho Nadezhda von Meck. Tchaikovsky cũng đã đi du lịch một thời gian ở Ý và ở đây ông đã viết xong một vở opera du dương đến lạ thường - vở Eugene Onegin. Vở opera này được công diễn lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 3 năm 1879 tại Nhà hát Malyj, Moscow. Lúc đó Tchaikovsky sáng tác rất nhanh, bà Nadezhda von Meck đã hào phóng hỗ trợ ông một khoản tiền hàng năm là 6000 rúp, điều này đã tạo điều kiện cho ông rời khỏi cái nhạc viện đáng sợ đó và bắt đầu một cuộc sống xa hoa ở Moscow và những chuyến du lịch hết đến Pháp lại đến Ý. Cuộc sống thường nhật của Tchaikovsky lúc này không có gì đặc biệt như những thành công về mặt chuyên môn trong các sáng tác của ông. Trong suốt 15 năm còn lại của cuộc đời, ông đã sáng tác được thêm 2 bản concerto cho piano và dàn nhạc: bản số 2 giọng Son trưởng, Op.44 (1879 - 1880) và số 3 giọng Mi giáng trưởng, Op. 75 (1893), một bản concerto tuyệt vời cho violin và dàn nhạc giọng Rê trưởng, Op. 35 (1878) và một tam tấu đàn dây giọng La thứ, Op. 50 - tác phẩm này đề tặng Nikolai Rubinstein.

Từ trái sang: Nikolai và Anton Rubinstein
Nhiều nhà phê bình cho rằng vở opera hay nhất của ông là vở The Queen of Spades (Con đầm bích) được sáng tác vào năm 1890 theo chủ đề Định mệnh mà ông yêu thích (tuy rằng trên thực tế thì Eugene Onegin vẫn được yêu thích hơn), được nhấn mạnh một cách ấn tượng bằng các giai điệu lặp lại mạnh mẽ. Tuy nhiên thời kỳ này tác phẩm xuất sắc nhất của ông là các tác phẩm viết cho dàn nhạc gồm có: 4 tổ khúc (trong đó tổ khúc thứ 4 “Mozartina là một chuyển soạn); Capriccio Italien, Op.45 (1880); Overture 1812 Op. 49 vĩ đại (1880); thơ giao hưởng Manfred, Op. 58 (1885) và giao hưởng số 5 giọng Mi thứ, Op.64 (1888). Vở ballet nổi tiếngThe Sleeping beauty (Người đẹp ngủ) được sáng tác vào năm 1890, sau đó là một vở ballet khác The Nutcracker (Kẹp hạt dẻ), Op.71 (1891 - 1892) duyên dáng nhưng cũng chỉ là một vở ballet ở mức trung bình giống như hai vở trước đó là The Swan LakeThe Sleeping beauty. Tuy nhiên, trong khi nét trữ tình, chậm rãi của hai vở ballet trước chỉ thường xoay quanh sự sướt mướt, uỷ mị thì vở ballet The Nutcrackernày đã hoàn toàn tránh được nguy cơ đó, với một chủ đề cho phép Tchaikovsky có thể thể hiện khả năng mô tả tính cách bằng âm nhạc (tiến gần đến sự lố bịch) ở mức tự tin chói sáng nhất. Âm nhạc của Tchaikovsky dành cho vở ballet này cho thấy một tầm ảnh hưởng đáng ngạc nhiên của các sáng tác khí nhạc và sự phối âm đã đạt tới đỉnh cao trong trích đoạn “Waltz of flowers” (Điệu Waltz của những bông hoa) đầy xúc động. Chủ đề Định mệnh đã quay trở lại một lần nữa trong bản giao hưởng số 6 “Pathétique” được sáng tác vào năm 1893 - tác phẩm vĩ đại và mang nhiều khát vọng nhất của ông. Trong một lá thư gửi cho cháu trai của mình Vladimir Davidov (‘Bob’) viết vào tháng 2 năm 1893, khi đang sáng tác bản giao hưởng này, Tchaikovsky đã viết: “Chú ước rằng mình có thể diễn tả hết được tâm trạng vui sướng mà chú đã gửi gắm vào trong tác phẩm mới này. Cháu sẽ hồi tưởng thấy vào một mùa thu, chú đã huỷ đi cái phần hay nhất trong bản giao hưởng mà chú vừa hoàn thành. Chú đã đúng khi bỏ nó đi vì nó chỉ là một ngón nghề, một bí quyết không mấy giá trị, một sự phô diễn trống rỗng của những nốt nhạc không chứa đựng nguồn cảm hứng thực sự. Thật tuyệt, trong suốt chuyến đi của chú tới Paris, chú đã có ý tưởng cho một bản giao hưởng mới dựa trên một chủ đề mà chú ước rằng không ai biết về nó, một chủ đề đã được giữ bí mật kỹ đến mức không ai có thể khám phá ra nó thậm chí ngay cả khi họ đã vắt óc ra để tưởng tượng. Khi nó được công diễn, chương trình này sẽ dần dần truyền tải những cảm giác riêng tư nhất của chú. Trong chuyến đi, khi phác hoạ bản giao hưởng trong đầu, chú đã hơn một lần phải bật khóc, cứ như thể bị rơi vào tình trạng tuyệt vọng hoàn toàn. Trên đường trở về, chú đã bắt đầu viết và miệt mài đến mức chú đã viết xong phần đầu trong chưa đầy 4 ngày và các phần khác đã được định hình rõ nét trong đầu chú. Về nhiều khía cạnh, bản giao hưởng này rất khác thường. Ví dụ, chương cuối là một nhịp adagio chậm thay vì nhịp allegro ầm ĩ. Cháu không thể hình dung được chú hạnh phúc như thế nào khi biết rằng chú chưa hề kết thúc, rằng chú vẫn còn có thể sáng tạo”.
Biệt thự nơi Tchaikovsky ở giai đoạn cuối đời
Biệt thự nơi Tchaikovsky ở giai đoạn cuối đời
Tchaikovsky đã chỉ huy buổi công diễn lần đầu tiên bản “Pathétique” này ở St Peterburg vào ngày 28 tháng 10 năm 1893 trong khi bệnh dịch tả đang hoành hành tại thành phố này. Một vài ngày sau, trong khi ăn tối cùng vài người bạn tại một nhà hàng, ông đã uống một cốc nước sông Neva (có thể đây là chủ ý của ông). Và ông đã chết trong sự đau đớn vào ngày mùng 6 tháng 11.

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Frédéric Chopin

Frédéric François Chopin nhạc sĩ Thiên tài ba lan
Chopin Sonata & Prelude & Ballade

Chopin Concerto

Tiểu sử


Chân dung Frédéric François Chopin của họa sĩ Eugène Delacroix năm 1838. Mới đầu bức hình này là một nửa của chân dung đúp có cả ông Chopin và George Sand.Ông sinh ngày 1 tháng 3[1] năm 1810 tại làng Żelazowa Wola (Ba Lan) dưới tên Fryderyk Franciszek Chopin; bố là Mikołaj Chopin, một nhạc sĩ gốc Pháp, mẹ là Tekla Justyna Krzyzanowska, một người Ba Lan. Tài năng của Chopin nảy nở từ rất sớm, và được so sánh với thần đồng âm nhạc Mozart. Khi mới 7 tuổi, Chopin đã là tác giả của 2 bản polonaise cung Sol thứSi giáng trưởng. Ông cũng đã tham gia một số buổi hòa nhạc từ thiện. Những buổi học piano chuyên nghiệp của ông bắt đầu từ năm1816 đến năm 1822, khi mà tài năng của cậu bé đã vượt qua cả người thầy Wojciech Zywny của mình. Sự phát triển tài năng của Chopin được theo dõi bởi Wilhelm Würfel, giáo sư, nghệ sĩ piano danh tiếng tại Nhạc viện Warsawa, người đã cho cậu một số lời khuyên có giá trị trong biểu diễn đàn piano vàorgan.
Từ năm 1823 đến năm 1826, Chopin học tại Warsawa Lyceum, nơi bố cậu là một trong những người giảng dạy. Cậu bé đã dành những kì nghỉ ở những căn nhà của gia đình những người bạn học ở nhiều nơi trên khắp đất nước. Nhà soạn nhạc trẻ tuổi đã nghe và ghi lại những bài hát dân ca, tham gia vào những đám cưới của những người nông dân và những lễ hội đồng quê, đồng thời chơi một thứ nhạc cụ dân gian giống như cây đàn contrabass. Và tất cả những hoạt động này đã được cậu bé miêu tả trong những lá thư của mình. Chopin đã trở nên gắn bó với âm nhạc dân gian của vùng đồng bằng Ba Lan, với sự thanh khiết, đặc sắc, giàu tính giai điệu và âm hưởng dân vũ. Khi sáng tác những bản mazurka đầu tiên và một số bản khác sau này, Chopin đã dựa vào nguồn cảm hứng được ông lưu giữ đến cuối đời này.
Mùa thu năm 1826, Chopin bắt đầu học lí thuyết âm nhạc và sáng tác âm nhạc tại trường trung học phổ thông về âm nhạc tạiWarsawa, một bộ phận của Nhạc viện Warsawa và Đại học Warsawa. Tuy nhiên, Chopin đã không theo học lớp piano. Nhận thấy tài năng xuất chúng của Chopin, Józef Elsner - nhà soạn nhạc và hiệu trưởng của trường - đã cho phép Chopin tập trung vào piano nhưng vẫn buộc ông học các môn lí thuyết. Chopin, vốn có khả năng trời phú về sáng tác âm nhạc, đã học được ở trường sự kỉ luật và chính xác trong kết cấu tác phẩm, cũng như hiểu được ý nghĩa và logic của từng nốt nhạc. Đây là thời gian ra đời của những tác phẩm có tầm cỡ đầu tiên của Chopin, ví dụ như bản Sonata cung Đô thứ, những khúc biến tấu opus số 2 dựa trên một chủ đề trong vở Don Giovanni của Mozart, bản Rondo á la Krakowiak op. 14 và bản tam tấu cung Sol thứ, opus 8 cho piano, violincello. Chopin kết thúc quá trình học tập của mình tại trường phổ thông vào năm 1829 và sau 3 năm học tại trường, Elsner đã viết trong một bản báo cáo: "Chopin, Fryderyk, học sinh năm thứ 3, một tài năng lớn, thiên tài âm nhạc".
Mikołaj Chopin,vẽ bởi Mieroszewski, 1829
Khi trở về Warsawa, Chopin cống hiến cho sự nghiệp sáng tác và đã viết một số tác phẩm, trong đó có 2 bản concerto cho piano và dàn nhạc cung Fa thứMi thứ. Bản concerto số 1 đã được gợi cảm hứng rất lớn từ cảm xúc của nhà soạn nhạc đối với Konstancja Gladkowska, sinh viên thanh nhạc tại nhạc viện. Đây cũng là thời kì Chopin cho ra đời những bản nocturne, étude, waltz,mazurka đầu tiên. Trong những tháng cuối cùng trước ngày Chopin dự định ra nước ngoài sinh sống, Chopin đã có một số buổi biểu diễn trước công chúng, chủ yếu là ở Nhà hát quốc gia Warsawa, nơi 2 bản concerto lần đầu tiên được biểu diễn. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1830, ông đã có một buổi hòa nhạc chia tay tại Nhà hát quốc gia Warsawa, trong đó ông đã biểu diễn bản concerto cung Mi thứ, và K. Gladkowska đảm nhiệm vai trò ca sĩ. Ngày 2 tháng 11, cùng với người bạn Tytus Woyciechowski, Chopin đã đến nước Áo, với dự định đi tiếp sang Italy.
Mùa thu năm 1831, ông đến Paris. Ở Paris, ông chọn nghề chơi và dạy đàn cùng lúc soạn nhạc, và ông lấy tên tiếng Pháp là Frédéric-François Chopin. Cả cuộc đời, sức khoẻ ông không được tốt . Ông có mối quan hệ gần gũi nhưng đầy trắc trở với nhà văn Pháp George Sand trong suốt 10 năm trước khi ông qua đời do lao phổi ngày 17 tháng 10 năm 1849 tại Paris, thọ 39 tuổi.
Khi Ba Lan bị phát xít xâm chiếm vào năm 1939, những người yêu nước đã tìm cách cất giấu trái tim của Chopin để không bị lọt vào bàn tay nhơ nhuốc của chúng. Mua thu năm 1949, trái tim được bí mật mang về Ba Lan, trong một chiếc hộp gỗ sồi. Ngày nay trái tim được đặt sau một phiến đá hoa cương tại nhà thờ Holy Cross,Warsaw.

Frédéric Chopin

Frédéric François Chopin nhạc sĩ Thiên tài ba lan
Chopin Sonata & Prelude & Ballade

Chopin Concerto

Tiểu sử


Chân dung Frédéric François Chopin của họa sĩ Eugène Delacroix năm 1838. Mới đầu bức hình này là một nửa của chân dung đúp có cả ông Chopin và George Sand.Ông sinh ngày 1 tháng 3[1] năm 1810 tại làng Żelazowa Wola (Ba Lan) dưới tên Fryderyk Franciszek Chopin; bố là Mikołaj Chopin, một nhạc sĩ gốc Pháp, mẹ là Tekla Justyna Krzyzanowska, một người Ba Lan. Tài năng của Chopin nảy nở từ rất sớm, và được so sánh với thần đồng âm nhạc Mozart. Khi mới 7 tuổi, Chopin đã là tác giả của 2 bản polonaise cung Sol thứSi giáng trưởng. Ông cũng đã tham gia một số buổi hòa nhạc từ thiện. Những buổi học piano chuyên nghiệp của ông bắt đầu từ năm1816 đến năm 1822, khi mà tài năng của cậu bé đã vượt qua cả người thầy Wojciech Zywny của mình. Sự phát triển tài năng của Chopin được theo dõi bởi Wilhelm Würfel, giáo sư, nghệ sĩ piano danh tiếng tại Nhạc viện Warsawa, người đã cho cậu một số lời khuyên có giá trị trong biểu diễn đàn piano vàorgan.
Từ năm 1823 đến năm 1826, Chopin học tại Warsawa Lyceum, nơi bố cậu là một trong những người giảng dạy. Cậu bé đã dành những kì nghỉ ở những căn nhà của gia đình những người bạn học ở nhiều nơi trên khắp đất nước. Nhà soạn nhạc trẻ tuổi đã nghe và ghi lại những bài hát dân ca, tham gia vào những đám cưới của những người nông dân và những lễ hội đồng quê, đồng thời chơi một thứ nhạc cụ dân gian giống như cây đàn contrabass. Và tất cả những hoạt động này đã được cậu bé miêu tả trong những lá thư của mình. Chopin đã trở nên gắn bó với âm nhạc dân gian của vùng đồng bằng Ba Lan, với sự thanh khiết, đặc sắc, giàu tính giai điệu và âm hưởng dân vũ. Khi sáng tác những bản mazurka đầu tiên và một số bản khác sau này, Chopin đã dựa vào nguồn cảm hứng được ông lưu giữ đến cuối đời này.
Mùa thu năm 1826, Chopin bắt đầu học lí thuyết âm nhạc và sáng tác âm nhạc tại trường trung học phổ thông về âm nhạc tạiWarsawa, một bộ phận của Nhạc viện Warsawa và Đại học Warsawa. Tuy nhiên, Chopin đã không theo học lớp piano. Nhận thấy tài năng xuất chúng của Chopin, Józef Elsner - nhà soạn nhạc và hiệu trưởng của trường - đã cho phép Chopin tập trung vào piano nhưng vẫn buộc ông học các môn lí thuyết. Chopin, vốn có khả năng trời phú về sáng tác âm nhạc, đã học được ở trường sự kỉ luật và chính xác trong kết cấu tác phẩm, cũng như hiểu được ý nghĩa và logic của từng nốt nhạc. Đây là thời gian ra đời của những tác phẩm có tầm cỡ đầu tiên của Chopin, ví dụ như bản Sonata cung Đô thứ, những khúc biến tấu opus số 2 dựa trên một chủ đề trong vở Don Giovanni của Mozart, bản Rondo á la Krakowiak op. 14 và bản tam tấu cung Sol thứ, opus 8 cho piano, violincello. Chopin kết thúc quá trình học tập của mình tại trường phổ thông vào năm 1829 và sau 3 năm học tại trường, Elsner đã viết trong một bản báo cáo: "Chopin, Fryderyk, học sinh năm thứ 3, một tài năng lớn, thiên tài âm nhạc".
Mikołaj Chopin,vẽ bởi Mieroszewski, 1829
Khi trở về Warsawa, Chopin cống hiến cho sự nghiệp sáng tác và đã viết một số tác phẩm, trong đó có 2 bản concerto cho piano và dàn nhạc cung Fa thứMi thứ. Bản concerto số 1 đã được gợi cảm hứng rất lớn từ cảm xúc của nhà soạn nhạc đối với Konstancja Gladkowska, sinh viên thanh nhạc tại nhạc viện. Đây cũng là thời kì Chopin cho ra đời những bản nocturne, étude, waltz,mazurka đầu tiên. Trong những tháng cuối cùng trước ngày Chopin dự định ra nước ngoài sinh sống, Chopin đã có một số buổi biểu diễn trước công chúng, chủ yếu là ở Nhà hát quốc gia Warsawa, nơi 2 bản concerto lần đầu tiên được biểu diễn. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1830, ông đã có một buổi hòa nhạc chia tay tại Nhà hát quốc gia Warsawa, trong đó ông đã biểu diễn bản concerto cung Mi thứ, và K. Gladkowska đảm nhiệm vai trò ca sĩ. Ngày 2 tháng 11, cùng với người bạn Tytus Woyciechowski, Chopin đã đến nước Áo, với dự định đi tiếp sang Italy.
Mùa thu năm 1831, ông đến Paris. Ở Paris, ông chọn nghề chơi và dạy đàn cùng lúc soạn nhạc, và ông lấy tên tiếng Pháp là Frédéric-François Chopin. Cả cuộc đời, sức khoẻ ông không được tốt . Ông có mối quan hệ gần gũi nhưng đầy trắc trở với nhà văn Pháp George Sand trong suốt 10 năm trước khi ông qua đời do lao phổi ngày 17 tháng 10 năm 1849 tại Paris, thọ 39 tuổi.
Khi Ba Lan bị phát xít xâm chiếm vào năm 1939, những người yêu nước đã tìm cách cất giấu trái tim của Chopin để không bị lọt vào bàn tay nhơ nhuốc của chúng. Mua thu năm 1949, trái tim được bí mật mang về Ba Lan, trong một chiếc hộp gỗ sồi. Ngày nay trái tim được đặt sau một phiến đá hoa cương tại nhà thờ Holy Cross,Warsaw.

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Buổi chiều tà của mặt trời lãng mạn (Charles Baudelaire, Pháp)

Hồ, 1900

Le coucher du soleil romantique

Que le soleil est beau quand tout frais il se lève,
Comme une explosion nous lançant son bonjour!
— Bienheureux celui-là qui peut avec amour
Saluer son coucher plus glorieux qu'un rêve!
Je me souviens!... J'ai vu tout, fleur, source, sillon,
Se pâmer sous son oeil comme un coeur qui palpite...
— Courons vers l'horizon, il est tard, courons vite,
Pour attraper au moins un oblique rayon!
Mais je poursuis en vain le Dieu qui se retire;
L'irrésistible Nuit établit son empire,
Noire, humide, funeste et pleine de frissons;
Une odeur de tombeau dans les ténèbres nage,
Et mon pied peureux froisse, au bord du marécage,
Des crapauds imprévus et de froids limaçons.

Buổi chiều tà của mặt trời lãng mạn (Người dịch: Vũ Đình Liên)

Ôi! đẹp sao mặt trời khi ban mai hồng tươi mọc
Như ánh sáng nổ tung, chào hỏi chúng ta
Sung sướng thay ai có thể say mê khao khát
Chào hỏi hoàng hôn rực rỡ hơn giấc mơ
Tôi nhớ lại!... Tôi đã thấy tất cả, hoa, suối, cánh đồng
Như một trái tim phập phồng, dưới ánh mặt trời rung động...
- Chạy mau đến chân trời, đã muộn rồi, ta hãy nhanh chân
Để níu, ít ra, một vài tia nắng quái!
Nhưng vô ích, đuổi chẳng được vị thần kia đã buộc
Đêm sâu mãnh liệt tiến lên, chiếm cả bầu trời
Đầy tai hoạ, rùng mình, tối đen, ẩm ướt
Một cái mùi chết chóc, từ đáy mả bốc lên
Và bàn chân ta rụt rè, trên miệng đầm lầy bẩn thỉu
Chạm bất ngờ những con ốc, con sên lạnh lẽo


Viên Ngọc Trai

                                                                         John Ernst Steinbeck

       Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Những người khốn khổ

                                                                            Victor Hugo

      Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Con Lừa và Tôi

                                                                          Juan Ramon Jiménez 

      Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi

                                                                      Gabriel Garcia Márquez

      Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Những linh hồn chết

                                                                       Nicolas Vassilievitch Gogol

 

Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Ngôi nhà của Matriona

                                                                             Ngôi nhà của Matriona

Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Quần đảo Ngục Tù

                                                                           Alexandre Soljenitsyne
      Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Đất Vỡ Hoang

                                                                                  Mikhail Solokhov

       Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Giã Từ vũ Khí

                                                                          ERNEST HEMINGWAY 

      Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Tầng đầu địa ngục

                                                                   Aleksandr I. Solzhenitsyn

      Hướng dẫn : Các bạn có thể Phóng to để xem toàn màn hình hoặc in ra hay tải về

Anh đã hái hoa này (Victor Hugo, Pháp)

429-1
Anh đã hái hoa này (Victor Hugo, Pháp)
J'ai cueilli cette fleur pour toi sur la colline

J'ai cueilli cette fleur pour toi sur la colline.
Dans l'âpre escarpement qui sur le flot s'incline,
Que l'aigle connaît seul et seul peut approcher,
Paisible, elle croissait aux fentes du rocher.
L'ombre baignait les flancs du morne promontoire ;
Je voyais, comme on dresse au lieu d'une victoire
Un grand arc de triomphe éclatant et vermeil,
À l'endroit où s'était englouti le soleil,
La sombre nuit bâtir un porche de nuées.
Des voiles s'enfuyaient, au loin diminuées ;
Quelques toits, s'éclairant au fond d'un entonnoir,
Semblaient craindre de luire et de se laisser voir.
J'ai cueilli cette fleur pour toi, ma bien-aimée.
Elle est pâle, et n'a pas de corolle embaumée,
Sa racine n'a pris sur la crête des monts
Que l'amère senteur des glauques goémons ;
Moi, j'ai dit: Pauvre fleur, du haut de cette cime,
Tu devais t'en aller dans cet immense abîme
Où l'algue et le nuage et les voiles s'en vont.
Va mourir sur un coeur, abîme plus profond.
Fane-toi sur ce sein en qui palpite un monde.
Le ciel, qui te créa pour t'effeuiller dans l'onde,
Te fit pour l'océan, je te donne à l'amour. -
Le vent mêlait les flots; il ne restait du jour
Qu'une vague lueur, lentement effacée.
Oh! comme j'étais triste au fond de ma pensée
Tandis que je songeais, et que le gouffre noir
M'entrait dans l'âme avec tous les frissons du soir !

Anh đã hái hoa này (Người dịch: Xuân Diệu)

Anh đã hái đoá hoa này trên đồi ấy cho em
Trong khoảng cheo leo nhìn xuống sóng nghiêng,
Mà chỉ có con diều biết rõ và tới được,
Giữa khe đá to bình yên hoa mọc.
Bóng tối dầm những sườn đá đìu hiu;
Anh nhìn thấy; như ở nơi mừng thắng trận
Một khải hoàn môn huy hoàng thắm đậm
Ở chốn kia mặt trời đã lặn chìm
Đêm dựng lên một cổng lớn mây chen.
Những cánh buồm bay ra xa, dần nhạt,
Dăm mái nhà dưới lũng sâu lát đác
Như sợ loé lên và sợ lộ mình.
- Anh đã hái hoa này, cho em của anh.
Hoa lọt lạt, mà cũng không thơm nữa,
Bởi rễ nó mọc ở trên vách đá
Chỉ hít mùi đằng đít của rong xanh.
Anh bảo thầm: -Hoa tội nghiệp! từ trên đỉnh gập ghềnh
Đáng lẽ em phải về nơi mênh mông vực thẳm
Mà rong với mây với buồm rong ruổi
Nhưng thôi em hãy chết trên một trái tim,
                             vực thẳm sâu hơn
Em hãy đến tàn trên ngực phập phồng
Trời sinh em ra để rã cánh vào sóng nước,
Trời uỷ em cho đại dương, ta uỷ em cho tình ái.
Gió khi ấy trộn các đầu sóng rối
Ngày chỉ còn một thoảng sáng dần phai
Ôi!trong đáy hồn anh buồn biết bao nhiêu
Anh nghĩ ngợi và vực đen trong lúc ấy
Vào giữa hồn anh cùng với vạn hơi chiều run rẩy!